Với một thương hiệu loa hàng đầu như Wilson Audio, và một thiết kế ưu việt như WAMM thì cặp loa ultra hi-end này không thể khiến người nghe phải thất vọng, dù là nhỏ nhất.
Huyền thoại trở lại
Đối với những ai say mê âm thanh và thiết bị hi-end, hẳn cái tên Wilson Audio sẽ không xa lạ. Nổi tiếng với những sản phẩm âm thanh cao cấp cùng với mức giá “đắt xắt ra miếng”, tuy nhiên khi đã được trải nghiệm, người ta sẽ cảm thấy số tiền bỏ ra không phí một xu.
WAMM (hay Wilson Audio Modular Monitor) là dòng loa nổi tiếng nhất của hãng Wilson Audio trước đây và đã ngừng sản xuất ở phiên bản thứ 7. Vì thế, đây là một trong những đôi loa được giới sưu tập săn lùng nhiều nhất trên thế giới. Cơn sốt này dường như tăng nhiệt hơn khi Dave Wilson, cha đẻ của WAMM, ra mắt phiên bản mới nhất: WAMM Master Chronosonic. Mẫu loa này dự kiến được sản xuất giới hạn ở số lượng 70 chiếc trên toàn thế giới, cùng mức giá bán cao ngất 685.000$ (xấp xỉ 16 tỷ VNĐ).
Giá cao cùng với số lượng sản phậm vô cùng ít ỏi khiến việc nghe thử mẫu loa này dường như không phải là một điều dễ dàng. Tuy nhiên, phóng viên Jackson Victor Serinus ở trang Stereophile đã được trải nghiệm dàn loa này ngay tại văn phòng của Wilson Audio, và ghi lại cuộc trò chuyện giữa ông và Dave Wilson cùng Daryl Wilson, 2 nhân vật chủ chốt của hãng.
Thiết kế độc đáo cùng nội lực mạnh mẽ
Sức mạnh của dàn loa WAMM mới nhất đến từ 9 củ loa con, chia làm hai phần mặt trước và mặt sau. Ở mặt trước có 7 loa, bao gồm: 1 loa tweeter Convergent Synergy, 2 loa upper mid (trở kháng 8 ohm), 2 loa lower Mid, 1 loa upper woofer và 1 lower woofer. Mặt sau có 2 loa, bao gồm 1 loa tweeter Convergen Synergy và 1 loa mid (trở kháng 16 ohm). Các củ loa này đều được thiết kế riêng cho WAMM, tuy nhiên có 2 loa woofer đã xuất hiện trên bộ loa Alexx, do quá trình phát triển loa WAMM mới quá dài.
Toàn bộ dây kết nối bên trong của WAMM đều được cung cấp bởi hãng dây nổi tiếng Transparent. Từng sợi dây nối đều được thiết kế riêng khiến dải tần đều được thể hiện trung thực với tín hiệu gốc và có thể đo lường chính xác.
Bộ khung đồ sộ cũng là một trong nhưng nét đặt trưng của WAMM Master Chronosonic. Nó đóng vai trò như một khung xương vững chắc cho các củ loa lẫn hệ thống dây bên trong, được đo đạc, thiết kế tỉ mỉ. Độ cong của khung là bí mật tạo nên sự đồng bộ về pha thời gian một cách hoàn hảo giữa các loa con.
Theo quan niệm của Dave, cha đẻ của WAMM Master Chronosonic, những kiểu loa có mặt trước thẳng đứng vuông góc thường có độ sai lệch lên đến cả trăm micro giây, một con số quá lớn mà đôi tai người có thể cảm nhận được. Tuy nhiên, kết cấu của WAMM có khả năng điều chỉnh độ lệch này xuống còn khoảng 2 micro giây. Bên cạnh đó, có 3 điều cần phải lưu ý khi đặt loa trong phòng: Khoảng cách từ loa đến tai người nghe – Khoảng cách từ tai người nghe đến sàn nhà – Thời gian truyền tải tín hiệu trong các linh kiện và dây dẫn.
Trong đó, thời gian truyền tải tín hiệu là một vấn đề quan trọng, nhất là với mục tiêu đồng bộ pha thời gian của một tổng hợp nhiều loa con. Wilson Audio đã chỉ ra, mỗi loại amplifier khác nhau sẽ có độ chênh lệch khác nhau, từ đó đưa ra điều chỉnh phù hợp cho từng loại. Ví dụ, cùng dãy tần số thấp sẽ di chuyển cực nhanh khi đi qua amplifer bán dẫn, trong khi đó ở amplifier đèn sẽ có độ trễ khoảng 50 micro giây.
Tuy nhiên, tốc độ chỉ là một khía cạnh trong toàn bộ khả năng cân chỉnh pha thời gian độc đáo của WAMM Master Chronosonic. Người nghe sẽ cảm nhận được âm thanh trong, rõ ràng và dào dạt khi chơi thử một bản ghi âm MQA từ WAMM cùng với nhiều kiểu phối dây và amplifier khác nhau.
Dave chia sẻ, điều ông quan tâm là độ đồng bộ đến từng nốt nhạc khi phát ra. Vì thế, các củ loa trên WAMM được thiết kế có thể điều chỉnh vị trí một cách tỉ mỉ, cân chỉnh chính xác theo thang đo 10 micro giây của Wilson Audio. Ví dụ, tiếng trống timpany trong dàn nhạc hòa tấu nổi tiếng Vienna Philharmonic, vốn mang nhiều họa âm. Một tiếng rung của trống có thể khuấy động cả loa woofer, mid và tweeter, tạo sự chênh lệch lên đến hàng trăm micro giây giữa các củ loa nếu như không được cân chỉnh pha thời gian.
Cứng hay mềm?
Đoạn hội thoại sau được lược dịch từ bài viết trải nghiệm của tác giả Jason, khi ông trao đổi với Dave và Daryl về đặc điểm của loa tweeter soft-dome đặt biệt của Wilson Audio.
Jason: Làm thế nào mà loa tweeter soft-dome của các anh gần như chạm tới ngưỡng tốc độ mà các loại loa tweeter hard-dome phải mất nhiều năm phát triển mới được?
Dave: Tôi cảm thấy thú vị với cách mà mọi người xem xét dựa trên tốc độ. Tôi đã hoạt động trong lĩnh vực này được một thời gian dài, từ khi mà mẫu ampli bán dẫn đầu tiên ra đời và được đánh giá tốt hơn các loại ampli đèn vì tốc độ của nó nhanh hơn. Nếu ai đó gặp vấn đề với củ loa tweeter soft-dome lụa mà chơi đĩa vinyl qua amplifier đèn, chắc chắn là có gì đó mâu thuẫn ở đây.
Một trong những đặc điểm của màng rung mềm là khi gặp hiện tượng phân rã (break-up), âm thanh bị vỡ ra nhẹ nhàng, từ tốn, khá giống với xén ngọn (soft clipping). Màng cứng đúng là có nhiều tiện lợi hơn, đặc biệt khi nó nhẹ, nhưng khi gặp hiện tượng phân rã thì tiếng phát ra sẽ bị gắt. Với những bộ loa có dải động rộng, các củ loa có thể phải hoạt động hết công suất và hay gặp hiện tượng này. Tôi là người thích dải động rộng, và đó là một trong những lý do vì sao tôi không dùng đến bộ phân tần có tốc độ 6dB/octave.
Tóm lại, ở đây không có câu trả lời tuyệt đối, tất cả đều phụ thuộc quan điểm của mỗi người
Daryl: Việc này giống như đánh giá một chiếc xe dựa trên khả năng tăng tốc từ 0-100 km/h. Tốc độ chỉ là một thông số. Đây là một câu hỏi hay, nhưng không phải là câu hỏi duy nhất. Vì vậy, việc tìm hiểu đến những đặc điểm khác là cực kỳ cần thiết cho những gì mà chúng tôi muốn đạt được.
Jason: Wilson Audio đã bao giờ thử nghiệm với tweeter bằng beryllium (một loại nguyên tố siêu nhẹ) chưa?
Dave: Đây là thế hệ 2 của mẫu WAMM thử nghiệm mà chúng tôi đặt trong phòng này. Phiên bản đầu tiên, tạm gọi là P1, có ngoại hình tương tự, vỏ bằng kim loại khác và chưa sơn, dĩ nhiên là nó có cả một củ loa tweeter bằng beryllium nữa. Sau khi thử nghiệm một thời gian, chúng tôi đã bỏ nó đi và thay bằng màng lụa.
Daryl: Chúng tôi đã thử nghiệm với kim cương, beryllium và titanium. Có vài hướng khả quan, ví dụ, một củ loa tweeter beryllium được phủ thêm một lớp bụi kim cương để tăng độ bền. Nhưng câu hỏi chúng tôi đặt ra là, liệu tiếng có thật hơn không? Liệu nó có khả năng giả lập lại trải nghiệm mà chúng ta có được khi ở Musikverein, Staatsoper và Concerthaus? Nó có thể đánh lừa tâm trí ta khi nhắm mắt lại, tạo cảm giác như ta đang thực sự ở tại những khán phòng đó? Đó là những câu hỏi mà chúng tôi đặt ra. Ngoài kia có nhiều nhà thiết kế cùng những sản phẩm xuất sắc, và dĩ nhiên họ cũng đã có những câu hỏi khác biệt với chúng tôi.
Dave: Cách này cũng được áp dụng chung với việc chọn nguyên liệu chúng tôi dùng cho các củ loa. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã chi khá nhiều tiền để đến các phòng hòa nhạc tầm cỡ tại Vienna và Cleveland, cũng như đến Mormon Tabernacle và Abravanel Hall ngay tại đây (Mỹ), để trải nghiệm việc nghe trực tiếp thật kỹ.
Daryl: Chúng tôi đã đi xung quanh sảnh trong suốt buổi hòa tấu, ghi chú lại, và tìm xem chỗ nào chúng tôi cảm thấy thích nhất. Sau đó chúng tôi quay về nhà, cùng bắt tay vào phát triển ra các loa con mà chúng tôi đang dùng hiện nay.
Nghe thử
Chất lượng của toàn hệ thống được đảm bảo hoàn toàn không có bất kỳ sai sót nào. Phối ghép với WAMM là mâm đĩa than Basic Inpiration dùng tay cần Basic Vector 4 và kim Lyra Etna SL, Phono preamp ARC Ref Phono 2, đầu băng từ John Curl/Studer A80 30ips, ½ analog, DAC dCS Vivaldi v 2.02, Preamp VTL 7.5 Series III, Amplifier monoblocks Dan D’Agostino Momentum M-400, dây tín hiệu Transparent Opus Gen 5 và cáp loa Magnum Opus Gen 5.
Khi bắt đầu nghe, tôi có cảm giác dường như không đủ thời gian thưởng thức. Nhưng chắc chắn là tôi đã khám phá ra nhiều điều mới lạ và thỏa mãn trong các bản thu và nghệ sĩ mà tôi yêu thích, ngay tại điểm ngọt (vị trí nghe hay nhất) trong phòng khách lớn của Wilson, với các tấm khuếch âm bố trí nghiêng xuống trên trần đối diện loa.
Trước tiên, khi ngồi cách loa khoảng 4m, tôi cảm thấy tiếng ít bị sáng hơn so với thứ âm thanh mà tôi thường nghe. Tương tự lúc tôi nhận ra khi ở nhà, một phần điều này có liên quan đến nguồn điện sạch, giúp giảm độ giòn, độ vỡ của tiếng. Dave đã dành ra sự quan tâm riêng cho việc thiết kết dây điện trong nhà. Trong phòng khách cũng có vài đường dây điện riêng biệt, bao gồm 2 đường dây 240V với bộ ngắt riêng cho từng đường, cùng một vài đường dây 120V.
Nhờ vào sự phối hợp của nguồn điện và những tấm thảm dầy, thảm trải sàn, đệm nội thất, âm thanh trong phòng khách nhà Wilson giống hệt như âm thanh ở một khán phòng hòa nhạc, nhấn mạnh các chi tiết về màu sắc và độ vang, đưa tôi đi từ khám phá này đến khám phá khác. Ở đĩa LP cũ Canate Domine (Proprius), tôi nhận thức sâu sắc sự cộng hưởng và độ hạ tự nhiên của giọng hát trong không gian âm thanh. Độ sâu của âm tầng trong bài L’Histoire du Soldat của Stravinsky trên đĩa SACD cũng gây sự ngạc nhiên tương tự.
Tôi cũng có thể nghe được chi tiết khoảng ngắt nghỉ giữa những tiếng vỗ trống nhanh mãnh liệt trên đĩa than CD Kodo Mondo Head (Red Ink) của Mickey Hart. Tôi thực sự giật mình với giai điệu rất nhanh và cực rõ ràng.
Sau một khoảng thời gian nghe đủ dài, tôi nhận thấy mình đang có may mắn được thưởng thức một trong những màn trình diễn tốt nhất và chính xác nhất về những gì mà các nghệ sĩ và kỹ sư ghi âm mong muốn đem đến cho người yêu âm nhạc.
* Phóng viên Jackson Victor Serinus
Khúc vĩ thanh của một tượng đài
WAMM Master Chronosonic được định sẵn vai trò như một chương cuối của bản giao hưởng trong thế giới audio mà Dave Wilson – một trong những người tiên phong – đã viết nên. Dù hơi tiếc khi chỉ có vài người có khả năng thưởng thức nó trong một buổi chiều, chúng ta ít nhất có thể an ủi bản thân rằng những công nghệ đột phá này cũng được đưa vào Alexx, mẫu loa được xem như phiên bản thu gọn của WAMM Master Chronosonic cùng mức giá đáng yêu hơn.
Theo Stereophile